Lịch sử Lubrza, tỉnh Lubuskie

Cổ đại

Vùng đất Lubrza ngày nay đã có con người sinh sống từ thời đại đồ đá mới, khoảng 5.000 năm TCN. Nhờ những bằng chứng tại vùng phụ cận, các nhà khảo cổ học xác nhận Lubrza là nơi sinh sống của cư dân văn hóa Lusatia trong thời đại đồ đồng khoảng 1300-750 TCN. Tại đây cũng có thể thấy rõ ảnh hưởng của văn hóa Przeworsk từ khoảng năm 450 TCN về sau. Có nhiều địa điểm khảo cổ về thời kỳ này quanh làng, chủ yếu dọc theo kênh Niesulicki và xa hơn xuôi theo dòng Rakownik. Đầu Trung cổ đã có những khu định cư lớn tại phụ cận Lubrza với tàn tích tháp canh quân sự hình nón ở phía bắc làng ngày nay.[23]

Trung cổ

Vị trí Lubrza trên bản đồ Świebodzinski năm 1692

Làng Lubrza được đề cập lần đầu từ năm 1246 nhưng một số nguồn cho rằng đó là thông tin giả mạo. Văn bản chép Przemysł I xác nhận rằng con trai Janusz xứ Widzimia là Komes Boędza nhường lại nơi này cho dòng Xitô từ Paradyż.[24][25][26] Thế kỷ 13, Lubrza được biết đến như một khu dân cư phong kiến điển hình, có tòa thành phát triển bên cạnh sản nghiệp tu viện Paradyż. Trong thế kỷ 13 và 14, thị trấn phát triển nhộn nhịp nhờ vào vị trí nằm trên trên tuyến giao thương từ Świebodzin tới Gorzów, cũng như kết nối FrankfurtPoznań. Thông tin xác chứng đầu tiên là vào năm 1247, liên quan đến quyết định của Giáo hoàng Innôcentê IV tiếp nhận tu viện dòng Xitô từ Paradyż cùng các làng thuộc quyền sở hữu tu viện, trong số đó có Lubrza.[26][27] Ngược lại, ghi chép năm 1249 đề cập đến việc Boędza dùng 40 grzywna[lower-alpha 3] bạc đổi lấy làng Lubrza của tu viện, được các viện phụ Xitô ở Lehnin xác nhận.[24][26][28] Năm 1293, con trai Boędza là Jan và Mikołaj ký thỏa thuận từ bỏ quyền sở hữu ngôi làng để nhận của tu viện 210 grzywna, có Przemysł II xác nhận.[26] Dòng Xitô sử dụng đất làng chủ yếu tập trung vào trồng trọt và chăn nuôi, luân canh ba năm.[29] Năm 1312, Lubrza là trung tâm hành chính của một trong các quận thuộc Công quốc Głogów nơi đặt lỵ sở của landvogt (thị trưởng) khi ấy.[30] Quyền sở hữu làng được san sẻ giữa giới hiệp sĩ và tu sĩ Paradyż. Tình trạng này kéo dài đến năm 1322, khi Piotr von Lossow đổi thị trấn và lâu đài ở Lubrza lấy 2 thị trấn nhỏ hơn. Việc trao đổi được Công tước Jan xứ ŚcinawaHenryk IV (II) Wierny xác nhận năm 1330.[26][31] Cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15, quyền lực dòng Xitô không ngừng được mở rộng ở Lubrza nên thị trấn mất đi tầm quan trọng về chính trị và hành chính thế tục để nhường chỗ cho Świebodzin.[30] Năm 1440, viện phụ Jan mua lại trang viên của Anna Promnitz ở Lubrza với giá 40 mác, gồm cả làng, ruộng canh tác và đồng cỏ.[26] Bộ máy hành chính chính thức được mô tả trong nửa đầu thế kỷ 15.[29] Ngày 20 tháng 9 năm 1482, theo thỏa thuận Kamieniec Ząbkowicki kết thúc Chiến tranh Kế vị Głogów, Lubrza cùng Świebodzin vẫn thuộc Công quốc Głogów. Nhưng do mất KrosnoSulechów nên hai nơi này bị bao quanh là các lãnh thổ của Brandenburg và Ba Lan.[32]

Cận đại

Liebenau, tranh của F.B. Werner trong Topografia oder Prodromus Delineati Silesiae Ducatus năm 1750

Từ năm 1526, thị trấn thuộc nhà Habsburg. Năm 1531, Ferdinand I Habsburg công nhận tất cả đặc quyền trước đây của tu viện Paradyż, giúp củng cố ảnh hưởng tôn giáo tại Lubrza.[26] Thế kỷ 16, Lubrza có nghề làm bia và dệt vải nhưng cùng lúc ấy, thành Świebodzin được phường hội cho phép độc quyền hai sản phẩm này khiến Lubrza mất đi tầm quan trọng. Từ năm 1613, thị trấn có đặc quyền tổ chức ba hội chợ mỗi năm. Năm 1616, hội thợ đóng giày địa phương đã nhận được giấy phép mới. Việc bắt buộc phải tham gia phường hội tại Świebodzin làm hạn chế nghề giết mổ và làm bánh.[30] Nhưng đến thế kỷ 17, Lubrza có những hội thợ thủ công mạnh: thợ đóng giày, thợ rèn, thợ đóng xe và thợ may.[29] Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618–1648) làm thị trấn mất vị thế một đô thị nhỏ. Nguyên nhân do thiếu công sự pháo đài bảo vệ nên quân đội đi qua có thể vào cướp bóc.[11][33] Từ năm 1742, Lubrza thuộc Vương quốc Phổ. Năm 1762 xảy ra cháy lớn, nhưng đây lại là một điểm tích cực để sau đó tái thiết mang lại đặc điểm thành thị nhiều hơn. Thế kỷ 18 cũng chứng kiến thương mại giảm dần vai trò để nhường chỗ cho thủ công nghiệp, một phần đất chợ được dùng để làm nhà ở.[34] Một số ngôi nhà đã được xây bằng gạch. Tại Lubrza có hai trường tôn giáo, hai cối xay gió và một trang trại tu viện.[30] Khi ấy, bố cục Lubrza vẫn nhỏ gọn với quảng trường chợ nằm giữa. Tu viện Paradyż duy trì quyền sở hữu cho đến năm 1810, khi sắc lệnh hoàng gia yêu cầu thế tục hóa tất cả sản nghiệp tu viện ở Phổ. Nhờ đó mà chính quyền thế tục đứng đầu là thị trưởng có toàn quyền trên vùng đất. Sự thay đổi này thúc đẩy thị trấn phát triển hơn. Năm 1824, các mỏ than non được phát hiện trong khi đào giếng.[29] Khai thác than giúp cho Lubrza phát triển kinh tế và gia tăng dân số, lấy lại vị thế thành thị vào năm 1857.[35][36] Năm 1890 ghi nhận dân số cao kỷ lục 1.303 người.[37] Khi than cạn kiệt thì thị trấn cũng dừng phát triển, một số cư dân chuyển đi đến các thị trấn khác gần đó vẫn đang khai thác mỏ tiếp.[33]

Hiện đại

Huy hiệu Liebenau trước chiến tranh

Năm 1933, Lubrza có khoảng 1.250 dân.[30] Con số này giảm xuống còn 1.170 người vào năm 1939 do di cư Ostflucht về miền tây nước Đức.[38] Một số nhà nghiên cứu cho rằng do không nằm trên tuyến đường sắt nên Lubrza từ từ suy giảm.[39] Tháng 4 năm 1941, hai trại lao động RAB-Lager Liebenau I và II thành lập tại Lubrza, dồn tù nhân Do Thái đi xây dựng đường cao tốc gần đó.[lower-alpha 4][40] Cùng một lúc có khoảng 400 lao động cưỡng bức. Đến hè 1942, việc xây dựng bị đình chỉ, tù nhân bị chuyển đến nhà máy giấy tại Kostrzyn nad Odrą.[41] Từ ngày 29 đến 31 tháng 1 năm 1945, tại vùng phụ cận Lubrza, Phương diện quân Belorussia 1 tổ chức chiến đấu nhằm phá vỡ các công sự của Hệ thống phòng thủ Międzyrzecki (tiếng Ba Lan: Międzyrzecki Rejon Umocniony - MRU, tiếng Đức: Festungsfront Oder-Warthe-Bogen hay Ostwall (Bức tường phía đông)).[42] Cuộc tiến công ban đầu của Tập đoàn quân thiết giáp 1 của Liên Xô đánh vào phần giữa Ostwall đã không thành công. Sau hai ngày không có kết quả, chỉ huy Tập đoàn quân 1 quyết định điều quân tập kích phần này từ phía nam. Họ kéo trọng pháo nã vào Tập đoàn cứ điểm Körner và cứ điểm 694 phía bắc Lubrza, Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 đánh tập hậu phần giữa Ostwall.[43] Sau đó, Hồng quân không đánh Lubrza mà di chuyển về phía tây bắc để liên hợp với Lữ đoàn Thiết giáp số 44. Đức tập trung lực lượng lớn tại Lubrza. Ngày 1 tháng 2 năm 1945, sau một ngày giao tranh, các đơn vị của Quân đoàn cơ giới cận vệ 11 chiếm được Lubrza.[44][45][46] 40% Lubrza bị phá hủy, tỷ lệ tàn phá cao nhất toàn huyện Świebodzinski trước chiến tranh bên cạnh Sulechów.[33][47][48] Các địa điểm bị phá hủy gồm nhà thờ Công giáo từ năm 1776, khách sạn, một phần khu dân cư, đặc biệt những nơi gần cứ điểm 694, nhà gỗ thế kỷ 17...[49][50]

Thuộc Ba Lan

Sau chiến tranh, Lubrza thuộc về Ba Lan. Do hậu quả chiến tranh và suy giảm dân số nên Lubrza mất vị thế thị trấn vào giữa năm 1946.[6][51] Vào thập niên 1960, dưới chế độ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, Lubrza khôi phục những yếu tố phát triển du lịch như trung tâm nghỉ 250 giường, bể bơi ở hồ Goszcza và bến du thuyền.[52] Giai đoạn thập niên 1970 đến đầu thập niên 1990 ghi nhận Lubrza là địa điểm du lịch quan trọng.[53][54][55] Các tài liệu du lịch thập niên 1980 đều coi Lubrza là một trong những khu nghỉ mát mùa hè được tổ chức tốt nhất Ba Lan. Kế hoạch phát triển được đề ra cho đến sau năm 1990, nhưng vào giữa thập niên 1980, các khoản đầu tư mới vào cơ sở hạ tầng du lịch đã bị ngưng lại.[52]

Từ tháng 2 năm 1945, Lubrza nằm trong Lãnh thổ được phục hồi (gọi là Khu hành chính III - Tây Pomerania). Ngày 25 tháng 9 năm 1945, với tư cách là đơn vị hành chính huyện Sulechowo-Świebodzin, Lubrza nằm dưới sự quản lý của chính quyền tỉnh Poznań. Ngày 28 tháng 6 năm 1946, Lubrza trực thuộc tỉnh Pomerania. Ngày 6 tháng 7 năm 1950, cùng với toàn bộ Świebodzin, Lubrza được sáp nhập vào tỉnh Zielona Góra mới thành lập,[lower-alpha 5] cho đến năm 1975. Trong những năm 1954-1972, làng là lỵ sở xã Lubrza. Sau khi phân chia hành chính mới giai đoạn 1975–1998, Lubrza thuộc tỉnh Zielona Góra nhỏ hơn.[lower-alpha 6] Từ năm 1999, Lubrza thuộc tỉnh Lubuskie.[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lubrza, tỉnh Lubuskie http://www.zgora.pios.gov.pl/wios/images/stories/p... http://www.zgora.pios.gov.pl/wios/images/stories/p... http://www.schwiebus.pl/articles.php?id=86 https://www.bdl.lasy.gov.pl/portal/mapy http://dir.icm.edu.pl/Slownik_geograficzny/Tom_XV_... https://www.wbc.poznan.pl/dlibra/show-content/publ... https://web.archive.org/web/20201228110735/https:/... https://www.schwiebus.pl/articles.php?id=171 https://gazetalubuska.pl/gmina-lubrza-nowe-drogi-i... http://www.gazetalubuska.pl/turystyka/art/7741487,...